Đức Quan Thế Âm Tự Tại vì lòng từ bi phát khởi bi nguyện muốn cứu độ chúng sinh thoát khỏi vô minh mê vọng, không phải chịu khổ trong ba đường ác. Đức Phật Di Đà phóng quang gia trì khiến đức Quan Âm hoá hiện mười một đầu, đầu trên cùng là Đức Phật Di Đà và pháp tướng Ngài có nghìn mắt nghìn tay để có thêm phương tiện tức tốc cứu độ chúng sinh. Thân Ngài sắc trắng, 11 đầu, có một đầu hiện tướng phẫn nộ.
- Phần hạ y của Đức Quan Âm tượng trưng cho bản tính Phật còn ẩn tàng trong mỗi chúng sinh. Các trang sức, tua lụa tượng trưng cho các công hạnh giác ngộ của ngài, rất uyển chuyển linh hoạt trong các cõi. Phần đầu của tua lụa luôn hướng lên, thể hiện chiến thắng trước tham sân si. Nửa thân dưới có các trang sức và xiêm y nêu biểu cho việc đem tất cả năng lượng ái dục vào con đường tu tập giác ngộ bởi vì tất cả những năng lượng tiêu cực không bị chối bỏ mà chuyển hóa thành đại từ đại bi và trí tuệ và những công hạnh độ chúng sinh tự lợi lợi tha.
- Nửa thân trên của Đức Phật Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn tượng trưng cho tâm Phật đã được chứng ngộ hoàn toàn, không bị che đậy bởi vô minh tăm tối. Các trang sức nêu biểu cho các công hạnh ba la mật.
Đức Phật Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn có ba lớp tay: trong cùng là 8 tay tượng trưng cho Pháp thân, lớp ở giữa có 42 tay tượng trưng cho Báo thân, lớp tay ngoài cùng tượng trưng cho Hóa thân. Các tay của Đức Quan Âm tượng trưng cho phương tiện, trên mỗi bàn tay có một con mắt tượng trưng cho trí tuệ. Con mắt trong lòng bàn tay hàm ý sự hợp nhất của phương tiện và trí tuệ Phật. Tám cánh tay ở lớp trong cùng tượng trưng hoa sen tám cánh, đồng thời tương ứng với tứ trí (Đại Viên Cảnh trí, Diệu Quan sát trí, Bình đẳng tính trí, Thành sở tác trí) và tứ đức (từ, bi, hỷ, xả).
- Hai cánh tay trong cùng của Đức Quan Âm đang ôm ngọc Mani. Ngọc Mani là biểu tượng của sự viên mãn tâm nguyện thế gian và xuất thế gian. Ở ý nghĩa sâu sắc hơn đó là sự giàu có tâm bồ đề. Hình ảnh bàn tay ôm ngọc mani chính là biểu tượng của sự hợp nhất giữa lòng từ bi vô lượng và trí tuệ siêu việt của đức Phật.
Các cánh tay còn lại:
- Cánh tay cầm chuỗi tràng thủy tinh là biểu tượng của lòng từ bi, sự thanh tịnh và việc lần chuỗi tràng chính là sự cứu độ liên tục không ngừng nghỉ của ngài
- Cánh tay cầm pháp luân nêu biểu việc ngài mang giáo pháp của Đức Phật ban trải và cứu độ khắp nơi – chuyển bánh xe pháp vô ngại của đức Quan Âm (là tượng trưng cho các lần chuyển bánh xe Pháp của Đức Phật vì lợi lạc của hết thảy chúng sinh)
- Cánh tay chỉ xuống là biểu tượng cho vô úy thí: ngài ban gia trì cho chúng sinh vượt qua sự sợ hãi, vượt qua mọi khổ đau phiền não, bởi vì chúng sinh từ lúc sinh ra đã bị ám ảnh bởi rất nhiều nỗi sợ hãi (nỗi sợ hãi bao trùm, từ lúc sinh ra cho tới lúc chết đi: sợ đói, nghèo, bất hạnh, không danh vọng…) chính vì thế Đức Phật Quan Âm hiện cánh tay thí vô úy để cứu khổ ban cho chúng sinh những viên mãn tâm nguyện thế gian.
- Cánh tay cầm hoa sen: tượng trưng cho Bồ đề tâm thanh tịnh, phẩm hạnh giác ngộ của chư Phật, cũng như hoa sen mọc từ bùn mà không nhiễm nhơ, tiêu biểu cho bản nguyện của ngài vào dời cứu khổ chúng sinh mà không bị chi phối.
- Cánh tay cầm cung tên: xạ thủ giương cung; mắt – cung – đích trên cùng 1 đường tượng trưng cho sự rõ ràng, hợp nhất của căn, đạo quả (mục đích, con đường tu tập, và thành tựu). Bàn tay của Đức Phật Quan Âm cầm cung tên tượng trưng cho sự nhất tâm điều phục tất cả mọi vọng tưởng, giải thoát khỏi luân hồi, đánh bại 4 ma (tử ma, ngũ ấm ma, phiền não ma, thiên ma).
- Cánh tay cầm bình cam lồ: tượng trưng cho năng lượng pháp vị cam lồ, tượng trưng sự gia trì của chư Phật để diệt trừ tất cả phiền não đau khổ tham sân si của chúng sinh.
- 42 tay ở giữa nêu biểu báo thân Phật, nêu biểu 42 thánh vị tu chứng (thập trụ, thập hạnh, thập địa, thập hồi hướng, đẳng giác và diệu giác) để cứu độ 25 cõi chúng sinh trải qua 42 thánh vị để thành tựu giác ngộ.
- Lớp tay ngoài cùng tượng trưng cho Hóa thân phật đi tất cả các nẻo trong luân hồi để cứu độ chúng sinh. Mắt (trí tuệ) trong lòng bàn tay (phương tiện).
Phần đầu của Đức Quan Âm (tiêu biểu cho 11 quả vị giác ngộ): gồm 5 tầng tượng trưng cho ngũ trí Phật; đầu trên cùng là biểu tượng của Pháp thân (Đức Phật Di Đà) nêu biểu cho chính đẳng chính giác, tiếp đến là Báo thân (Đức Kim Cương Thủ trong hiện tướng phẫn nộ chính là Bất không thành tựu Phật ở phương Nam), 3 tầng dưới (9 đầu còn lại) là biểu tượng của Hóa thân.
Ba khuôn mặt ở giữa nêu biểu cho Đại viên cảnh trí là Đức Phật A Súc Bệ ở phương Đông, 3 mặt này hiện tướng từ bi vì thấy chúng sinh làm thiện mà ngài sinh tâm an lạc, đại từ đại bi. Ba mặt bên trái nêu biểu sự hàng phục ngã ái – bình đẳng tính trí của đức Bảo Sinh Phật ở phương nam. Ba mặt này vì thấy chúng sinh làm ác mà khởi tâm phẫn nộ, hàng phục chuyển hóa những chúng sinh cương cường khó độ. Ba khuôn mặt bên phải nêu biểu năng lực thuyết pháp của Diệu quan sát trí của Phật A Di Đà ở phương Tây.
Đức Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn mang trên mình các sức trang hoàng, tương ứng với Ngũ bộ Phật và Ngũ Trí.
- Khuyên tai tương ứng với Đức Phật A Di Đà, nêu biểu cho Diệu quan sát trí
- Vòng cổ tương ứng với đức Phật Bảo Sinh, nêu biểu cho Bình đẳng tính trí
- Các vòng tay tương ứng với Phật Tỳ Lư Giá Na, nêu biểu Pháp giới thể tính trí
- Đai lưng Phật tương ứng với Phật Bất Không Thành Tựu, nêu biểu Thành sở tác trí
- Mũ (vương miện) tương ứng Phật A Súc Bệ, tiêu biểu Đại viên cảnh trí
- Ba lọn tóc của Đức Quan Âm nêu biểu năng lực bi, trí, dũng đồng thời tượng trưng cho tam bình đẳng (Phật, chúng sinh và tâm đều bình đẳng không sai khác).
Đức Quan Âm khoác tấm da nai, tượng trưng cho bi nguyện đồng sự của ngài. Ngài đi vào lục đạo luân hồi, đồng cam cộng khổ với chúng sinh.
Tứ phía của bức Thangka tượng trưng tứ phía với các Bản tôn:
- Phương Nam: Bản tôn Văn thù tiêu biểu cho Bảo Sinh Phật – Bình đẳng tính trí
- Phương Tây: Bản tôn Bạch độ Mẫu và Đức Phật A Di Đà – Diệu quan sát trí
- Phương Bắc: Bản tôn Lục độ Mẫu – Bất Không Thành Tựu – Thành sở tác trí
- Phương Đông: Bản tôn Kim Cương thủ – A Súc Bệ Phật – Đại viên cảnh trí
Đức Di Đà ở giữa là Pháp thân là thể của Đức Quan Âm và về phần sự ngài là căn bản thương sư của Đức Quan Âm. Về phần lý Đức Di Đà là trí tuệ của pháp thân, Đức Quan Âm là phương tiện của lòng từ bi. Tuy Đức Quan Âm nhập thế cứu độ chúng sinh hoạt động cứu độ chúng sinh trong khắp nẻo luân hồi nhưng vẫn an trụ trong đại định của Đức A Di Đà.
Ngoài ra trong bức Thangka còn có các loài hoa tượng trưng cho các công hạnh của Phật, muôn thú vạn loài hữu tình đều hoan hỷ quy y Phật.
Phía dưới bức Thangka là ngọc Mani, tượng trưng cho sự giàu có của tâm Bồ đề (phần lý), hay là tượng trưng cho các phẩm vật cúng dường và sự viên mãn tâm nguyện của chúng sinh (phần sự). Tấm gương là biểu tượng của Đại viên cảnh trí, có thể soi rọi nghiệp chướng của chúng sinh một cách rõ ràng. Cây đàn là biểu tượng của diệu âm thanh, nêu biểu 60 diệu âm giác ngộ của Phật.
Sưu tầm